Ngôi chùa cổ Long Cảm nằm bên bờ bắc của dòng sông Mã xưa, nay là nhánh sông Lèn, tọa lạc trên sườn ngọn Cô Sơn ở thôn Trang Các (xã Hà Phong, Hà Trung, Thanh Hóa). Tuy nhỏ nhưng Long Cảm tự có cảnh trí rất đẹp với lối kiến trúc cổ kính và được bao bọc bởi đồng ruộng và làng mạc thôn quê yên bình.
Cặp khánh đá cổ được treo ngay ngắn ở góc sân chùa Long Cảm. Ảnh: Lê Hoàng. |
Theo sư thầy trụ trì Thích Đàm Quang, Long Cảm là một trong những ngôi chùa cổ nhất xứ Thanh. Vào năm 1.020, trên đường từ Thăng Long tuần du qua xứ Thanh, vua Lý Thái Tổ dừng xa giá tại vùng núi này, nơi xưa kia Triệu Đà đã dựng thành lũy, Triệu Quang Phục từng đóng quân. Đêm nằm mộng, vua linh cảm thấy thần thiêng sông núi của xứ sở này phù trợ, ban thêm sức mạnh cho mình. Cảm tạ ơn đức ấy, Lý Thái Tổ sai dựng ngôi chùa, lấy tên là Long Cảm.
Trải qua gần 10 thế kỷ, nhiều triều đại phong kiến đời sau đều rất quan tâm đến ngôi chùa độc đáo này. Nhiều tao nhân mặc khách cũng coi đây là chốn đi về bái Phật cầu an, vãn cảnh, tu dưỡng tâm tính, để lại nhiều thơ phú. Bên trong chùa có tám pho tượng của tám vị tổ sư từng tu hành tại chùa, được coi là những tác phẩm nghệ thuật quý hiếm, tinh xảo. Cạnh đó là những di vật có tuổi đời hàng trăm năm, thậm chí ngót nghét nghìn năm, được cung tiến qua các lần trùng tu.
Sư thầy Thích Đàm Quang cho hay, ấn tượng nhất với phật tử và du khách bốn phương khi đến vãn cảnh chùa Long Cảm là cặp khánh đá cổ đặt ở sân chùa. Hai chiếc khánh rất lớn, nặng khoảng 300-400 kg, cùng màu đá xanh xám, được treo ngay ngắn trên các trụ đá và đặt song song nhau. Điểm khác của chúng là một chiếc có hoa văn chạm trổ hình đám mây, một chiếc đơn thuần là phiến đá lớn tạc hình bán nguyệt được làm phẳng. Căn cứ vào các thư tịch cổ và văn tự khắc trên đôi khánh đá, các nhà nghiên cứu lịch sử đều có chung nhận định, chúng không có chung nguồn gốc cũng như niên đại.
Căn cứ vào chất liệu và tiếng ngân, nhà nghiên cứu văn hóa Phan Bảo (áo trắng) cho hay, nguồn gốc và niên đại của cặp khánh đá là khác nhau. Ảnh: Lê Hoàng. |
Theo sư thầy Thích Đàm Quang, chiếc khánh lớn có họa tiết hoa văn vốn không phải của nhà chùa. Trước đây nó ở trong ngôi chùa bên làng Thượng. Mấy chục năm trước, chùa Thượng bị đổ, nhiều đồ thờ bị vỡ hỏng, có người tiếc chiếc khánh quý bèn đem giấu xuống ao bèo để bảo quản. Sau này, người đó thuê người trục vớt lên, đem về chùa Long Cảm cung tiến nên nhà chùa treo bên cạnh chiếc khánh cổ ở sân.
Còn chiếc khánh cổ của chùa Long Cảm, ngay cả sư thầy Thích Đàm Quang từng mấy chục năm làm trụ trì ở đây cũng không rõ có từ bao giờ. “Không có cứ liệu rõ ràng nhưng thầy tin rằng khánh được đặt cùng lúc dựng chùa, tức là đã nghìn năm nay rồi. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, niên đại chiếc khánh cổ gần hơn, vào khoảng thời Hậu Lê, chừng 300-400 năm trước. Trông nó giản dị, mộc mạc, không có hoa văn, lại bị sứt một mảng to nơi thường dùng để gõ, có thể do sử dụng nhiều…”, thầy Đàm Quang nhận định.
Điểm khác biệt lớn nhất của hai chiếc khánh cổ còn nằm ở tiếng ngân vang. Sư thầy Thích Đàm Quang cho hay, với chiếc khánh đá cũ chỉ cần lấy tay vỗ vỗ sẽ phát ra những tiếng kêu trầm bổng ngân dài. Nếu dùng vồ gỗ gõ mạnh, nó ngân như tiếng chuông đồng, vang xa. Còn với chiếc khánh lớn mới được đưa về từ làng Thượng, dù gõ mạnh đến mấy cũng chỉ phát ra tiếng “lạch, cạch” trầm đục.
Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Bảo lý giải, sự khác nhau về âm thanh của đôi khánh cổ là do chất liệu đá. “Chiếc khánh không kêu có lẽ được chế tác từ khối đá xanh bình thường. Còn chiếc khánh kêu chắc chắn được chế tạo từ đá của núi Nhồi, không thể là đá ở bất cứ nơi nào khác”, ông Bảo nói.
Ông Bảo cho hay, núi Nhồi hiện nay thuộc phường An Hoạch (TP Thanh Hóa), cách chùa Long Cảm gần 30 km về phía nam. Núi có tên chữ là An Hoạch, bên trên có cụm tượng mẹ con nàng Vọng Phu. Thời Tiền Lê, núi từng là nơi sinh sống của rất nhiều người Lồi (nước Chiêm Thành xưa), nên còn gọi là núi Lồi, sau trại đi thành núi Nhồi. Đá núi Nhồi rất quý, nên từ hàng nghìn năm trước, người dân ở đây đã có nghề khai thác đá để làm khánh, bia, tạc tượng và nhiều vật dụng khác.
Chùa Long Cảm là một trong những ngôi chùa cổ nhất xứ Thanh. Chùa lạc trên đỉnh Cô Sơn, được bao bọc xung quanh là đồng ruộng phì nhiêu và những làng quê yên bình. Ảnh: Lê Hoàng. |
Theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, núi An Hoạch có “thế núi cao mà thoải, sắc đá trắng mà mượt, tiếng kêu mà trong”, phù hợp với việc làm khánh đá. Người ta đã biết tận dụng đặc điểm độc đáo của đá Nhồi này từ rất xa xưa. Trong cuốn Vân đài loại ngữ, bảng nhãn Lê Quý Đôn chép chuyện quan Thượng thư Lê Hữu Kiểu khi làm trấn thủ Thanh Hóa sai người đến núi Nhồi lấy đá đẽo thành chiếc khánh hình cá, rồi khắc chữ vào khánh rằng: “Hoạch Sơn loại đá kêu vang/ Sắc xanh màu biếc mịn màng đẹp tươi/ Gõ lên sang sảng bên tai/ Tuyệt nhiên không chút trần ai lạc vần…”.
Sư thầy Thích Đàm Quang cho hay, khánh là một trong những pháp khí cổ xưa của Phật giáo. Hiện nay, không còn nhiều chiếc khánh đá cổ như ở chùa Long Cảm. “Âm thanh của khánh đá có tác dụng rất mầu nhiệm với người tu thiền. Các thiền sư một khi đã nhập định đến một cảnh giới nào đó thì trời long đất lở xung quanh, thân tâm của các vị ấy vẫn bất động. Nhưng chỉ với một tiếng khánh nhỏ vang lên cũng đủ làm cho các ngài thức giấc” sư thầy Đàm Quang nói.
Hiện du khách thập phương vẫn thường tìm đến chùa để tự tay gõ nhẹ vào khánh đá cổ mà nghe tiếng kêu, để tâm hồn thanh thản. Có người gõ khánh để cầu may mắn, bình an hay cầu tự.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét