Bia Khôn nguyên chí đức hay còn gọi bia Quang thục Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao là một trong 12 bảo vật quốc gia được Thủ tướng công nhận năm 2014. Cùng với bia Vĩnh Lăng (Lam Sơn Vĩnh Lăng Bi), hai bảo vật này góp phần tạo nên giá trị đặc biệt cho Khu di tích lịch sử Lam Kinh.
Bia Khôn Nguyên cách mộ Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao khoảng 100 m về phía Tây. Ảnh: Lê Hoàng. |
Khôn Nguyên Chí Đức Chi Bi hiện nằm trên đồi Phú Lâm, thuộc Khu di tích lịch sử Lam Kinh (xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa). Theo tài liệu lịch sử, văn bia do tiến sĩ Nguyễn Bảo và tiến sĩ Nguyễn Xung Xác soạn, được tạc dựng năm Cảnh Thống thứ nhất (1498) đời vua Lê Hiến Tông, sau hai năm bà Ngô Thị Ngọc Dao qua đời.
Bia được tạc bằng chất liệu đá xanh nguyên khối, hình chữ nhật, trọng lượng khoảng 13 tấn và được đặt trên lưng một con rùa lớn. Bia được khắc chữ Hán nổi hai mặt kèm theo nhiều họa tiết hoa văn, chủ yếu là hình lưỡng long chầu nguyệt, hình lá đề, hoa cúc hình dây…
Mặt trước văn bia ghi về gia tộc, xuất thân và công trạng của Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao - người có công lớn cùng vua Lê Thái Tông gìn giữ, xây dựng, bảo vệ đất nước và nuôi dạy thái tử nối ngôi. Mặt sau văn bia khắc bài thơ điếu của Lê Hiến Tông (cháu nội Hoàng thái hậu) và 36 bài họa thơ của các danh nhân, khoa bảng đương thời.
Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao sinh năm 1420, người xã Động Bàng nay thuộc Đồng Phang, xã Định Hòa (Yên Định, Thanh Hóa). Bà sinh ra trong gia đình có dòng dõi nhiều đời làm quan. Cha là Ngô Từ - gia thần của vua Lê Thái Tổ.
Năm 16 tuổi, Ngô Thị được tuyển vào cung làm phi tần. Bà có giọng nói dễ nghe, nết na lại hợp khuôn phép. Đối với bậc trên đúng lễ độ, tiếp kẻ dưới có ân tình nên được Lê Thái Tông rất sủng ái.
Năm 1442, bà sinh Lê Tư Thành (sau này lên ngôi lấy hiệu là Lê Thánh Tông). Khi Tư Thành chưa đầy tháng tuổi thì vua Lê Thái Tông qua đời, bà ở góa nuôi con, sống xa chốn cung đình, gần gũi nhân dân, tu rèn đạo đức làm gương cho con cháu.
Bảo vật quốc gia Khôn Nguyên Chí Đức Chi Bi dù đã hơn 500 năm tuổi nhưng còn khá nguyên vẹn. Ảnh: Lê Hoàng. |
Theo nội dung văn bia, Hoàng thái hậu sinh ra đã là người đôn hậu, cần kiệm, không chuộng xa hoa. Khi tiếp xúc với ai cũng hòa nhã, dịu dàng. Bà kính trọng tông miếu, phụng thờ thần linh, của ngon vật lạ bốn phương dâng lên, bao giờ cũng đem tiến cúng trước. Bà không làm việc trái lễ, không ở nơi không chính đáng, giản dị mà trang nhã, lịch sự, cử chỉ thường lễ độ, ít khi ra khỏi phòng vi.
“Trong cung đình, kẻ sang người hèn đều gọi bà là Phật sống. Khi được vua cung cấp vàng lụa thì bà đem ban phát cho mọi người xung quanh và giúp đỡ kẻ nghèo khó, hòm tủ thường trống rỗng, không có của cải dành riêng”, văn bia ghi.
Đặc biệt, khác với người thường dù tuổi cao mà tóc bà không bạc, răng không rụng, mắt không mờ, nhan sắc không kém sút, vẫn tươi đẹp như người trạc tuổi 40. Tính vốn ham học, lại biết làm thơ, mỗi lúc nhàn rỗi bà lại đem kinh truyện ra dạy bảo đàn cháu nhỏ.
Công lao lớn nhất của bà Ngô Thị Ngọc Dao đối với xã tắc bấy giờ là đã nuôi dạy con trai trở thành vị vua anh minh, tài lược lưu danh sử xanh - Lê Thánh Tông, vị vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử Việt Nam (38 năm). Các sử gia đánh giá, Hoàng thái hậu là người phụ nữ giỏi giang, giàu lòng khoan dung, đức độ, có đầy đủ phẩm chất “công, dung, ngôn, hạnh”, xứng đáng ở vị trí hàng đầu các vị hoàng hậu Đại Việt.
Năm Bính Thìn (1496) Thái hậu mắc bệnh rồi qua đời ở điện Thừa Hoa, thọ 76 tuổi, vua Lê Thánh Tông truy phong bà là Quang Thục Hoàng thái hậu. Thi hài bà được đưa về an táng tại Sơn Lăng (Lam Kinh). Ngoài việc xây lăng mộ, vua còn dựng tấm bia lớn để ghi lại công đức và cho tạc tượng, đúc chuông thờ tại điện Huy Văn.
Quanh nhà bia Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao có nhiều tượng rồng đá rất uy nghi. Ảnh: Lê Hoàng. |
Theo ông Vũ Đình Sỹ, Phó ban quản lý di tích Lam Kinh, Khôn Nguyên Chí Đức Chi Bi được các nhà nghiên cứu đánh giá là một trong những tấm bia cổ có kích thước lớn, đạt giá trị nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, tiêu biểu về hình thức, kiến trúc, điển hình cho một phong cách nghệ thuật mới hoàn chỉnh.
Văn bia là hiện vật độc đáo, không chỉ góp phần giáo dục truyền thống mà còn là tài liệu quý khi nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật Việt Nam thời Lê Sơ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét